Thiết kế Lớp_tàu_khu_trục_C_và_D

Những con tàu này vẫn dựa trên lớp B dẫn trước, nhưng được mở rộng để tăng tầm hoạt động và có thể mang một khẩu QF 3-inch 20 cwt phòng không.[1] Lớp này cũng giới thiệu tháp điều khiển cho tàu khu trục Anh. Lớp C độc đáo ở điểm nó có cầu tàu tách rời với bệ la bàn và cần điều khiển bánh lái riêng biệt khỏi phòng hải đồ và tháp chỉ huy. Cách sắp xếp bất thường này không hề được lặp lại. Do chính sách của Bộ Hải quân Anh luân phiên chuyển đổi chức năng Quét mìn khu trục hai tốc độ (TSDS: Two-Speed Destroyer Sweep) và sonar giữa các chi hạm đội khu trục, lớp C không được trang bị sonar ASDIC và chỉ được thiết kế để mang sáu mìn sâu. Lớp D là sự lặp lại của lớp C, ngoại trừ thiết bị quét mìn TSDS được thay bằng ASDIC và chỗ trống cho đến 30 quả mìn sâu.[2]

Các tàu khu trục lớp C và D có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.375 tấn Anh (1.397 t), và lên đến 1.865 tấn Anh (1.895 t) khi đầy tải. Các con tàu có chiều dài chung 329 foot (100,3 m), mạn thuyền rộng 33 foot (10,1 m) và mớn nước 12 foot 6 inch (3,8 m). Chúng được cung cấp động lực bởi hai turbine hơi nước hộp số Parsons, dẫn động hai trục chân vịt, tạo ra công suất 36.000 mã lực càng (27.000 kW) cho phép đạt tốc độ tối đa 36 hải lý trên giờ (67 km/h; 41 mph).[3] Hơi nước cho turbine được cung cấp bởi ba nồi hơi ống nước Admiralty hoạt động ở áp suất 300 psi (2.068 kPa) và nhiệt độ 600 °F (316 °C). Các con tàu khu trục mang theo tối đa 473 tấn Anh (481 t) dầu đốt cho phép chúng có tầm xa hoạt động 5.500 hải lý (10.200 km; 6.300 dặm) ở tốc độ đường trường 15 hải lý trên giờ (28 km/h; 17 mph). Thành phần thủy thủ đoàn bao gồm 145 sĩ quan và thủy thủ.[1]

Kempenfelt, soái hạm của lớp C, có trọng lượng choán nước nặng hơn 15 tấn Anh (15 t) so với những chiếc còn lại và chở thêm 30 người hình thành nên ban tham mưu của Tư lệnh chi hạm đội.[4] Điểm độc đáo của nó so với tất cả những chiếc lớp C và D là nó có ba nồi hơi ống nước Yarrow hoạt động ở áp suất 310 psi (2.137 kPa).[1] Duncan, soái hạm của lớp D, nặng hơn những chiếc cùng lớp 25 tấn Anh (25 t) và cũng chở thêm 30 người.[5]

Mọi con tàu đều trang bị bốn khẩu pháo QF 4,7 in (120 mm) Mk IX trên các tháp pháo đơn, được đặt tên 'A', 'B', 'X' và 'Y' tuần tự từ trước ra sau. Cho mục đích phòng không, chúng có một khẩu QF 3 inch 20 cwt[Note 1] giữa hai ống khói. Lớp C mang hai khẩu QF 2-pounder 40 milimét (1,6 in) Mk II phòng không phía sau sàn trước. Lớp D dự định mang súng máy QF 0.5-inch Vickers Mk III bốn nòng kiểu mới hai bên cánh cầu tàu; nhưng do chưa sẵn có, pháo 2-pounder kiểu cũ được giữ lại trên các chiếc Daring, Diana, Diamond và Defender. Pháo phòng không 3-inch được tháo dỡ vào các năm 19361937, và các khẩu 2-pounder được tái bố trí trên các bệ giữa hai ống khói.[6]

Dàn pháo chính được điều khiển bằng một Đồng hồ Kiểm soát Hỏa lực Admiralty Mk I, sử dụng thông tin có từ bộ điều khiển hỏa lực và máy đo tầm xa. Chúng không có khả năng phòng không, nên các khẩu pháo phòng không được ngắm thuần túy bằng mắt.[7]

Khi được Canada mua lại vào năm 19371938, bốn tàu khu trục lớp C được tái trang bị để đáp ứng các đặc tính kỹ thuật riêng cho Canada,[8] kể cả việc trang bị sonar ASDIC Kiểu 124.[9] Ngoại trừ việc trang bị hệ thống sưởi hơi nước, không rõ là Kempenfelt có được cải biến gì khác khi nó được chuyển giao vào tháng 10 năm 1939.[10]

Các cải biến trong thời chiến

Bắt đầu từ tháng 5 năm 1940, bệ phóng ngư lôi phía sau được tháo dỡ thay bằng một khẩu QF 12-pounder Mk V phòng không; cột ăn-ten sau và ống khói được cắt ngắn để tăng cường góc bắn cho nó. Từ bốn đến sáu khẩu pháo tự động QF 20 mm Oerlikon được bổ sung cho các con tàu sống sót, thường là để thay cho các khẩu 2-pounder hay súng máy.50-calibre bố trí giữa các ống khói. Một cặp được bố trí hai bên cánh của cầu tàu và một cặp khác đặt trên bệ đèn pha tìm kiếm.[11] Vào đầu chiến tranh, lượng mìn sâu mang theo tăng lên 33 quả trên lớp C, trong khi lớp D mang 38 quả.[12] Tháp pháo 'Y' trên sàn sau được tháo dỡ trên nhiều chiếc lấy chỗ để chứa thêm mìn sâu cũng như pháo 12-pounder; và ít nhất trên một chiếc kiểu pháo này thay thế cho tháp pháo 'X'. Trên hầu hết các con tàu, tháp pháo 'A' hay 'B' được thay thế bằng Hedgehog, một dàn cối chống tàu ngầm, riêng Duncan vẫn giữ lại hai tháp pháo khi dàn Hedgehog được tách ra làm đôi gắn hai bên tháp pháo 'A'. Một số chiếc trang bị Hedgehog ở vị trí tháp pháo 'B' còn được trang bị hai khẩu pháo Hotchkiss QF 6-pounder cũ để chống lại tàu ngầm U-boat ở tầm rất gần.[11]

Bộ điều khiển hỏa lực và máy đo tầm xa đặt trên nóc cầu tàu của hầu hết các con tàu được thay thế bằng radar dò tìm mục tiêu Kiểu 271. Một bộ radar bước sóng mét Kiểu 286 dò tìm mặt đất tầm ngắn cũng được bổ sung. Dựa trên thiết bị ASV của Không quân Hoàng gia Anh, thiết bị sơ khai này chỉ có một ăn-ten cố định quét một góc trước mũi tàu, đòi hỏi con tàu phải thường xuyên đổi hướng để thay đổi hướng quét. Một số chiếc còn có thiết bị định vị vô tuyến Huff-Duff đặt trên một cột ăn-ten ngắn.[11]